THÔNG TIN CHUNG VỀ BỆNH DỊCH TẢ GIA SÚC NHỎ LOÀI NHAI LẠI
Tác nhân gây bệnh và loài cảm nhiễm
Bệnh Dịch tả gia súc nhỏ loài nhai lại (Peste des petits ruminants - PPR) là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm xuyên biên giới do vi rút Peste des petits ruminants, thuộc chi Morbillivirus, Các chủng vi rút PPR được phân thành bốn dòng (I, II, III và IV) dựa trên trình tự một phần của gen N và F. Theo các báo cáo, các chủng PPR hiện nay tại châu Á đều thuộc dòng IV.
Bệnh PPR gây bệnh cho gia súc loài nhai lại nhỏ nuôi nhốt và hoang dã. Loài vật mắc bệnh chủ yếu là dê và cừu, trong đó dê nhạy cảm hơn cừu. Trâu, bò có thể nhiễm vi rút, nhưng không có biểu hiện triệu chứng lâm sàng và không bài thải vi rút ra môi trường. Vi rút PPR không lây bệnh cho người (WOAH, 2022).
Bệnh PPR là bệnh bắt buộc phải khai báo theo danh mục bệnh động vật trên cạn của Tổ chức Thú y thế giới (WOAH) xếp loại là bệnh ưu tiên cần kiểm soát.
Đặc điểm dịch tễ
Động vật khỏe mắc bệnh nguyên nhân do tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với động vật bị bệnh. Vi rút thường xâm nhập qua đường hô hấp và tiêu hóa thông qua tiếp xúc, không khí, thức ăn, nước uống, dụng cụ chăn nuôi như máng ăn, xe chở gia súc bệnh có chứa mầm bệnh. Phân, nước tiểu, sữa và các sản phẩm sảy thai của gia súc bệnh chứa lượng lớn vi rút.
Tỷ lệ mắc và tỷ lệ chết tùy thuộc vào nhiều yếu tố như: độc lực của vi rút, loài động vật mẫn cảm, tuổi, giống, tình trạng miễn dịch và điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng, tỷ lệ mắc có thể lên tới 90-100%, tỷ lệ chết từ 50-90%, trong trường hợp mắc bệnh cấp tính tỷ lệ chết lên tới 90% tổng đàn. Vi rút lây truyền chủ yếu qua giọt bắn, dịch mũi, miệng, do tiếp xúc trực tiếp với dịch tiết, phân, nước tiểu, và môi trường nhiễm vi rút. Vi rút có thể tồn tại trong thời gian dài trong mô lạnh hoặc đông lạnh, nhưng dễ bị bất hoạt trong điều kiện môi trường và các tác nhân vật lý, hóa học.
Triệu chứng lâm sàng và bệnh tích
Triệu chứng lâm sàng
Thời gian ủ bệnh trung bình từ 4–5 ngày (dao động từ 3–14 ngày). Ở giai đoạn cấp tính, động vật sốt cao (40-41°C) kéo dài 3–5 ngày, kèm ủ rũ, chán ăn, khô mũi. Sau đó xuất hiện chảy dịch mắt, mũi và niêm mạc miệng, ban đầu loãng rồi trở nên mủ nhầy kèm chảy nhiều nước dãi. Các tổn thương ăn mòn niêm mạc miệng có thể hoại tử, ở thể nặng sẽ thấy lắng đọng fibrin ở lưỡi. Tiếp theo, con vật bị tiêu chảy, ho, khó thở, sụt cân, gầy yếu, hạ thân nhiệt nhanh và chết sau 5–10 ngày kể từ khi phát bệnh. Viêm phế quản phổi, đặc trưng bởi ho, có thể phát triển ở giai đoạn cuối của bệnh. Động vật mang thai có thể bị sảy thai. Tỷ lệ mắc bệnh và tử vong ở động vật non cao hơn ở động vật trưởng thành.

Động vật khỏe mắc bệnh do tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với động vật bị bệnh. Ảnh sưu tầm
Một số trường hợp nhẹ có thể hồi phục sau 10–15 ngày và miễn dịch suốt đời. Mức độ biểu hiện triệu chứng, tỷ lệ mắc và chết phụ thuộc vào độc lực chủng vi rút, điều kiện môi trường và tình trạng miễn dịch vật chủ.
Bệnh tích
Bệnh tích đại thể: Xuất huyết, hoại tử niêm mạc đường tiêu hóa, có thể kéo dài từ niêm mạc miệng đến van hồi manh tràng. Ruột già thường bị ảnh hưởng nghiêm trọng hơn, với các tổn thương phát triển xung quanh van hồi manh tràng, tại chỗ nối manh tràng và trực tràng. Phần sau biểu hiện các vệt tắc nghẽn dọc theo các nếp gấp của niêm mạc, tạo nên hình dạng sọc ngựa vằn đặc trưng (zebra stripes) ở niêm mạc ruột; tắc nghẽn thức ăn trong ruột, mảng payer bị hoại tử, hạch lympho sưng to; gan, lách xuất huyết và hoại tử; phổi bị phù, viêm phổi kẽ và xuất huyết
Bệnh tích vi thể: Kiểm tra mô bệnh học thấy xuất hiện các tế bào khổng lồ đa nhân và các thể vùi trong tế bào chất, các tế bào khổng lồ này xuất hiện nhiều nhất trong các tế bào biểu mô phổi, biểu mô phế quản, phế nang và biểu mô đại tràng; tế bào gan bị thoái hóa, xuất hiện không bào và bạch cầu ái toan và các tế bào lympho tại tĩnh mạch cửa; phổi bị xung huyết và xuất huyết điểm, viêm phổi kẽ, và xuất hiện nhiều các tế bào sợi ở phổi.
BIỆN PHÁP PHÒNG, CHỐNG
Tổ chức giám sát phát hiện dịch bệnh
Tổ chức giám sát tại các vùng chăn nuôi dê, trâu, bò vùng giáp biên, cơ sở buôn bán, cơ sở giết mổ dê, trâu, bò. Khi phát hiện dê, cừu có triệu chứng sốt, chảy dịch (mắt, mũi, miệng), tiêu chảy, loét miệng: lấy mẫu gửi phòng xét nghiệm có thẩm
Biện pháp xử lý ổ dịch
Lấy mẫu gửi cơ quan xét nghiệm có thẩm quyền để xét nghiệm đối với đàn dê, cừu nghi ngờ mắc bệnh.
Khi có kết quả khẳng định PPR: Cách ly toàn bộ đàn nhiễm, tạm dừng vận chuyển dê, cừu trong vùng dịch và vùng đệm (bán kính ≥ 3 km tính từ ổ dịch). Thực hiện công bố dịch và tổ chức chống dịch theo đúng quy định của Luật Thú y và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Thú y. Tổ chức tiêu hủy toàn bộ động vật mắc bệnh, có dấu hiệu mắc bệnh PPR, chết. Tổ chức tiêm phòng khẩn cấp khi có dịch xảy ra đối với toàn bộ đàn dê, cừu khỏe mạnh thuộc diện tiêm phòng trong xã có dịch và các xã xung quanh xã có dịch. Thực hiện việc tổng vệ sinh, khử trùng tiêu độc liên tục 01 lần/ngày trong vòng 1 tuần đầu tiên; 03 lần/tuần trong 2 tuần tiếp theo tại hộ có dịch và các khu nguy cơ cao trong xã có dịch. Báo cáo Trạm chăn nuôi và Thủy sản khu vực 8 tỉnh kết quả triển khai các biện pháp phòng, chống dịch.
Phòng bệnh
Phòng bệnh bằng vắc xin
Tổ chức WOAH khuyến cáo vắc xin tiêm phòng như sau: Vắc xin sử dụng: vắc xin sống giảm độc lực chủng Nigeria/75/1 hoặc Sungri/96 (WOAH, 2022). Hiệu lực bảo hộ: ≥3 năm sau tiêm. Đối tượng tiêm: dê, cừu ≥ 3 tháng tuổi; không tiêm cho con đang sốt hoặc bệnh. Liều tiêm: 1 liều/động vật theo hướng dẫn nhà sản xuất, tiêm dưới da. Bảo quản: 2–8°C, tránh ánh sáng; dung môi pha vô trùng; sử dụng trong 2 giờ sau pha. Lịch tiêm phòng khuyến nghị: Đối với vùng có nguy cơ cao: tiêm toàn đàn hằng năm; Đối với vùng an toàn: tiêm phòng định kỳ 2–3 năm/lần.
Biện pháp chăn nuôi an toàn sinh học
Thực hiện chăn nuôi an toàn sinh học, thực hành chăn nuôi tốt, cụ thể: Thực hiện nuôi cách ly dê, cừu 21 ngày trước khi nhập đàn; thường xuyên sát trùng chuồng trại, máng ăn, dụng cụ chăn nuôi; quản lý tốt chất thải, nguồn nước, hạn chế người và phương tiện ra vào khu vực chăn nuôi; định kỳ tổ chức vệ sinh, khử trùng, tiêu độc tại các khu vực chăn nuôi, các chợ, điểm buôn bán, giết mổ dê, cừu và các sản phẩm của dê cừu bằng vôi bột hoặc hóa chất sát trùng dùng trong thú y.
Tác giả: Huyền Trang
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Hôm nay
Tổng lượt truy cập